Nhân Trần
Tên khoa học: Adenosma caeruleum R. Br.
(Adenosma glutinosum (L.) Druce var. caeruleum Tsoong)
Thuộc họ: Hoa mõm chó Scrophulariaceae
Tên vị thuốc: Nhân trần
Tên khác: Chè nội, Chè cát, Tuyến hương lam.
Đặc điểm thực vật
Cây Nhân trần là loài cỏ mọc hoang sống hàng năm, cây cao từ 80 – 110 cm, thân tròn màu tím sẫm, trên thân có lông trắng mịn, cây có khả năng phân cành nhiều. Lá mọc đối, hình trứng, đầu lá dài, mép lá có răng cưa, phiến lá dài từ 4 – 9 cm. Hoa mầu tím, mọc đơn độc, hình ống. Quả nang hình trứng, khi chín quả có mầu nâu và tự tách ra, hạt nhỏ mầu nâu.
Mùa hoa vào tháng 8 – 9. Mùa quả vào tháng 9 – 10.
Điều kiện sinh thái và phân bố
Cây Nhân trần thường mọc hoang ở những đồi, ruộng trung du miền Bắc, nhiều nhất tại Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Nghĩa Lộ, Quảng Ninh, Hà Nội (Sóc Sơn), v.v… ở phía Nam cũng gặp Nhân trần mọc ở Tây Ninh.
Nhân trần phân bố ở Thái Lan, ấn Độ, Inđônêxia.
Nhân trần là cây sống hàng năm, gieo hạt bắt đầu từ cuối tháng 2 sang tháng 3 khi cây được 6 lá đem trồng, sau khi trồng 5 – 6 tháng cây bắt đầu ra hoa, kết hạt sau đó tàn lụi. Cây cũng có thể tái sinh nếu gặp điều kiện thuận lợi, gốc cây có thể sống qua đông đến mùa xuân năm sau xuất hiện các chồi mới.
Cây ưa sáng và ưa ẩm nhưng không chịu được úng, lượng mưa thích hợp cho Nhân trần từ 1700 – 1800 mm, nhiệt độ thích hợp từ 15 – 30oC. Những năm gần đây, Nhân trần được trồng nhiều ở một số nơi như Mê Linh (Vĩnh Phúc), Gia Lộc (Hải Dương) và một số vùng đồi núi gần Hà Nội… Phạm vi thích ứng về đất đai cũng khá rộng. Nhân trần trước đây mọc hoang, sau đó nhân dân đưa về trồng ở các tỉnh vùng trung du miền núi có kết quả. Nhân trần được di thực và trồng ở một số tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương) có chất lượng cũng không thua kém Nhân trần trồng ở vùng trung du miền núi.
Giá trị làm thuốc
Thành phần hoá học
Cây Nhân trần có tinh dầu với hàm lượng 1%, trong đó các thành phần chính là paracymen, pinen limonen, cineol, anethol. Ngoài ra còn có một số thành phần khác như axit nhân thơm, sesquiterpen, flavonoid, monoterpenoid…
Bộ phận dùng làm thuốc và công dụng
Bộ phận dùng làm thuốc:
Bộ phận dùng làm thuốc là bộ phận trên mặt đất của cây Nhân trần.
Công dụng:
Theo y học cổ truyền
Nhân trần có vị đắng, cay, tính bình, quy vào các kinh tỳ, vị, can, đởm, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, hành khí, chỉ thống, lợi tiểu, làm ra mồ hôi. Được dùng trong các bệnh viêm gan, viêm túi mật, bệnh hoàng đản (vàng da), kích thích tiêu hóa.
Nhân trần dùng chữa vàng da, sốt nóng, tiểu tiện không thông, và hồi phục sức khoẻ cho phụ nữ sau khi đẻ.
ở Trung Quốc, Nhân trần được dùng chữa phong thấp cốt thống, khí trễ phúc thống, mụn nhọt, mẩn ngứa do bọ đốt…
Theo y học hiện đại
Nhân trần có tác dụng tăng tiết mật trên chuột lang.
Tăng cường khả năng thải trừ của gan qua thực nghiệm với nghiệm pháp BSP ở chuột lang.
Trên mô hình gây phù bàn chân chuột bằng kaolin và mô hình gây u hạt thực nghiệm cho thấy, Nhân trần có tác dụng chống viêm rõ rệt ở cả giai đoạn cấp và mãn tính.
Nhân trần cũng gây teo thu tuyến ức ở chuột cống non (mức độ 31,4%), thể hiện tác dụng ức chế miễn dịch.
Tác dụng diệt giun kí sinh rất tốt, đã thử nghiệm trên giun đũa.
Nhân trần có tác dụng kháng một số chủng vi khuẩn Shigella shigae, Staphylococcus aureus, Streptococcus hemolyticus…
Độc tính cấp và bán mãn được nghiên cứu trên thực nghiệm không thấy có các biểu hiện nhiễm độc do thuốc.
Bộ môn truyền nhiễm Trường đại học Y khoa Hà Nội dùng siro Nhân trần điều trị thực nghiệm bệnh viêm gan do virus trong giai đoạn cấp tính (các bệnh nhân dùng thuốc là người lớn), có biểu hiện của thời kì tiền hoàng đản hay hoàng đản, có hoạt độ của men transaminaza và bilirubin máu tăng. Sau một thời gian điều trị cho thấy bilirubin máu và hoạt độ của SGPT trở về bình thường và cải thiện rõ rệt các triệu chứng cơ năng của bệnh nhân.
Viện Dược liệu đã nghiên cứu và sản xuất thuốc Abivina từ Nhân trần, dùng để hỗ trợ điều trị viêm gan virus.